đàn ông xương trắng nặng quằn
- Còn mấy cái lý do lẻ tẻ, như là nếu các bạn là đàn ông, các bạn yêu cầu chuyện nhỏ nhặt ngượng mồm, nhưng nếu bạn là 1 thằng đàn bà, người ta sẽ chả bao giờ chấp chuyên đo lọ nước mắm, đếm củ dưa hành của bạn. Thế đấy!
Con vợ nó không phải giống người. Nó có biết thương mẹ già đâu! Chồng chết vừa mới xong tang, nó đã vội vàng đi lấy chồng ngay, nó đem đứa con gái lên năm giả lại bà. Thành thử bà đã già ngót bảy mươi, lại còn phải làm còm cọm, làm mà nuôi đứa con gái ấy cho
3. Cái Tết của Mèo Con - Chuột Cống và đám đàn em. Cả bọn chuột, thằng nào thằng nấy mép béo nhờn. Chuột Cống gật gù lim dim mắt kể lại cho đám đàn em: - Hừ, cái nhà này, ngày xưa không bao giờ tao thèm mò đến. Nhà nó nghèo lắm. Thế mà mấy năm nay, có Nồi Đồng
Ba luôn nhìn vế phía biển, bởi nơi đó có mẹ, người đàn bà bám biển cùng những người đàn ông. Một người đàn bà khi phải cuộn mình trước sóng gió cuộc đời rồi vững chãi tay bè tay lưới là người đàn bà khiến ta ngưỡng mộ nhất. Thời chiến, ba là người anh hùng
Họ biểu khi thắng dững con ngựa màu hạt dẻ chở ông đi trong cỗ xe Tổng thống đẹp đẽ, thì ông ngồi trên í mới cái va-li lót nhung đựng đầy rượu ngay bên cạnh! Ông chủ biểu chừng nào mà dững người da trắng miền nam muốn, anh ta có thể lưu Tổng thống lại đến khi
mix and match warna baju dan jilbab. Trích Kinh Vu Lan và Báo Hiếu; Dịch giả HT. Thích Huệ Đăng; Nxb Tôn Giáo PHẬT NÓI KINH BÁO ĐÁP ĐỀN CÔNG ƠN CHA MẸ DIỄN NGHĨA Ta từng nghe lời tạc như vầy Một thuở nọ Thế Tôn an trụ, Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung, Chư Tăng câu hội rất đông, Tính ra đến số hai muôn tám ngàn Lại cũng có các hàng Bồ Tát, Hội tại đây đủ mặt thường thường, Bấy giờ, Phật lại lên đường, Cúng hàng đại chúng Nam phương tiến hành. Đáo bán lộ đành rành mắt thấy, Núi xương khô bỏ đấy lâu đời, Thế Tôn bèn vội đến nơi, Lạy liền ba lạy, rồi rơi giọt hồng. Đức A Nan trong lòng ái ngại, Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương, Vội vàng xin Phật dạy tường “…Thầy là Từ Phụ ba phương bốn loài. Ai ai cúng kính Thầy dường ấy, Cớ sao Thầy lại lạy xương khô?” Phật rằng trong các môn đồ, Ngươi là đệ tử đứng đầu dày công. Bởi chưa biết đục trong chưa rõ, Nên vì ngươi Ta tỏ đuôi đầu Đống xương dồn dập bấy lâu, Cho nên trong đó biết bao cốt hài. Chắc cũng có ông bà cha mẹ, Hoặc thân ta, hoặc kẻ ta sanh, Luân hồi sanh tử, tử sanh, Lục thân đời trước, thi hài còn đây. Ta lễ bái kính người tiền bối, Và ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa. Đống xương hỗn tạp chẳng vừa, Không không trai gái bỏ bừa khó coi. Ngươi chịu khó xét soi cho kỹ, Phân làm hai bên nữ, bên nam, Để cho phân biệt cốt phàm, Không còn lộn lạo nữ nam chất chồng. Đức A Nan trong lòng tha thiết, Biết làm sao phân biệt khỏi sai, Ngài bèn xin Phật chỉ bày, Vì khó chọn lựa gái trai lúc này. Còn sanh tiền dễ bề sắp đặt, Cách đứng đi ăn mặc phân minh, Chớ khi rã xác tiêu hình, Xương ai như nấy, khó nhìn khó phân. Phật mới bảo A Nan nên biết, Xương nữ nam phân biệt rõ ràng, Đàn ông xương trắng nặng quằn, Đàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn. Ngươi có biết cớ sao đen nhẹ? Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra, Sanh con ba đấu huyết ra, Tám hộc bốn đấu sữa hòa nuôi con. Vì cớ ấy hao mòn thân thể, Xương đàn bà, đen nhẹ hơn trai. A Nan nghe vậy bi ai, Xót thương cha mẹ công dày dưỡng sanh. Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo, Phương pháp nào báo hiếu song thân? Thế Tôn mới bảo lời rằng Vì ngươi Ta sẽ phân trần khá nghe Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc, Sanh đặng con thập ngoạt cưu mang, Tháng đầu, thai đậu tợ sương, Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường. Tháng thứ nhì dường như sữa đặc. Tháng thứ ba như cục huyết ngưng. Bốn tháng đã tượng ra hình. Năm tháng ngũ thể 1 hiện sinh rõ ràng. Tháng thứ sáu lục căn 2 đều đủ, Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương, Lại thêm đủ lỗ chân lông, Cộng chung đến số tám muôn bốn ngàn. Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ. Chín tháng thì đầy đủ vóc hình. Mười tháng là đến kỳ sinh. Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn. Bằng ngỗ nghịch làm buồn thân mẫu. Nó vẫy vùng đạp quấu lung tung, Làm cho cha mẹ hãi hùng, Sự đau, sự khổ không cùng tỏ phân. Sinh sanh đặn muôn phần khoái lạc, Cũng ví như được bạc được vàng. Thế Tôn lại bảo A Nan Ơn cha nghĩa mẹ mười phần phải tin. Điều thứ nhứt giữ gìn thai giáo, Mười tháng trường chu đáo mọi bề. Thứ hai sanh đẻ gớm ghê, Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần. Điều thứ ba, thâm ân nuôi dưỡng, Cực đến đâu, bền vững chẳng lay. Thứ tư ăn đắng nuốt cay, Để dành bùi ngọt đủ đầy cho con Điều thứ năm lại còn khi ngủ, Ướt mẹ nằm khô ráo phần con. Thứ sáu sú nước nhai cơm, Miễn con no ấm chẳng nhờm, chẳng ghê. Điều thứ bảy không chê ô uế, Giặt đồ dơ của trẻ không phiền. Thứ tám chẳng nỡ chia riêng, Nếu con đi vắng cha phiền mẹ lo Điều thứ chín miễn con sung sướng, Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam, Tính sao có lợi thì làm, Chẳng màng tội lỗi, bị giam bị cầm. Điều thứ mười chẳng ham trau chuốt, Dành cho con các cuộc thanh nhàn, Thương con như ngọc như vàng, Ơn cha nghĩa mẹ, sánh bằng Thái Sơn. Phật lại bảo A Nan nên biết Trong chúng sanh tuy thiệt phẩm người, Mười phần mê muội cả mười, Không tường ơn trọng đức dày song thân. Chẳng kính mến, quên ân, trái đức, Không xót thương dưỡng dục cù lao, Ấy là bất hiếu mặc giao, Thì những người ấy đời nào nên thân. Mẹ sanh con cưu mang mười tháng, Cực khổ dường gánh nặng trên vai, Uống ăn chẳng đặng vì thai. Cho nên thân thể hình hài kém suy. Khi sanh sản hiểm nguy chi xiết, Sanh đặng rồi tinh huyết dầm dề, Ví như thọc huyết trâu dê, Nhứt sanh thập tử nhiều bề gian nan. Con còn nhỏ phải lo chăm sóc, Ăn đắng cay, bùi ngọt phần con, Phải tắm, phải giặt, rửa trôn, Biết rằng dơ dáy mẹ không ngại gì. Nằm phía ướt, con nằm phía ráo, Sợ cho con ướt áo, ướt chăn, Hoặc khi ghẻ chóc khắp thân, Ắt con phải chịu trăm phần thảm thương. Trọn ba năm bú nương sữa mẹ, Thân gầy mòn nào nệ với con, Đến khi vừa được lớn khôn, Mẹ cha dạy bảo cho con vỡ lòng, Cho con đi học mở thông trí tuệ, Dựng vợ chồng có thể làm ăn, Ước mong con được nên thân, Dầu cho cha mẹ cơ bần quản chi. Con đau ốm tức thì lo chạy, Dầu tốn hao cách mấy cũng đành, Khi con căn bệnh đặng lành, Thì cha mẹ mới an thần định tâm. Công dưỡng dục sánh bằng non biển, Cớ sao con chẳng biết ơn này! Hoặc khi lầm lỗi bị rầy, Chẳng tuân thì chớ lại bày ngỗ ngang. Hỗn cha mẹ phùng mang trợn mắt, Khinh trưởng huynh nộ nạt thê nhi, Bà con chẳng kể ra chi, Không tuân Sư Phụ lễ nghi chẳng tường. Lời dạy bảo song đường không kể, Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng. Trái ngang chốn báng mọi đàng, Ra vào lui tới mắng càng người trên. Vì lỗ mãng tánh quen làm bướng Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn, Lớn lên theo lối hung hăng, Đã không nhẫn nhịn lại càng hành hung. Bỏ bạn lành theo cùng chúng dữ, Nếu tập quen làm sự trái ngang, Nghe lời dụ dỗ quân hoang, Bỏ cha bỏ mẹ trốn sang quê người Trước còn tập theo thời theo thế, Thân lập thân tìm kế sinh nhai, Hoặc đi buôn bán kiếm lời, Hoặc vào quân lính với đời lập công. Vì ràng buộc đồng công, mối nợ, Hoặc trở ngăn vì vợ vì con, Quên cha quên mẹ tình thâm, Quên xứ quên sở lâu năm không về. Ấy là nói những người có chí, Chứ phần nhiều du hý mà thôi, Sau khi phá hết của rồi, Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài. Theo trộm cướp, hoặc là bài bạc, Phạm tội hình, tù ngục phải vương, Hoặc khi mang bệnh giữa đường, Không người nuôi dưỡng bỏ thân ngoài đồng. Hay tin dữ, bà con cô bác, Cùng mẹ cha xao xác buồn rầu, Thương con than khóc ưu sầu, Có khi mang bệnh đui mù vấn vương. Hoặc bệnh nặng vì thương quá lẽ, Phải bỏ mình làm quỷ giữ hồn, Hoặc nghe con chẳng lo lường, Trà đình, tửu điếm, phố phường ngao du. Cứ mài miệt với đồ bất chánh, Chẳng mấy khi thần tỉnh mộ khang, Làm cho cha mẹ than van, Sanh con bất hiếu phải mang tiếng đời. Hoặc cha mẹ đến hồi già yếu, Không ai nuôi thiếu thốn mọi điều, Ốm đau đói rách kêu rêu, Con không cấp dưỡng bỏ liều chẳng thương. Phận con gái còn nương cha mẹ, Thì có lòng hiếu đễ thuận hòa, Cần lao phục dịch trong nhà, Dễ sai dễ khiến hơn là nam nhi. Song đến lúc tòng phu xuất giá, Lo bên chồng chẳng sá bên mình, Trước còn lai vãng viếng thăm, Lần lần nguội lạnh biệt tăm biệt nhà. Quên dưỡng dục song thân ơn trọng, Không nhớ công mang nặng đẻ đau, Chăng lo báo bổ cù lao, Làm cho cha mẹ buồn rầu thảm thay. Nếu cha mẹ rầy la quở mắng, Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiêng, Chớ chi chồng đánh liên miên, Thì cam lòng chịu chẳng phiền chẳng than. Tội bất hiếu lưỡng ban nam nữ, Nói không cùng nghiệp dữ phải mang, Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng, Trong hàng đại chúng lòng càng thảm thay! Gieo xuống đất, lấy cây lấy củi, Đập vào mình, vào mũi, vào hông, Làm cho các lỗ chân lông, Thảy đều rướm máu, ướt đầm cả thân. Đến hôn mê tâm thần bất định, Một giây lâu mới tỉnh than rằng Bọn ta quả thiệt tội nhơn, Xưa nay chẳng rõ không hơn người mù. Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc, Ruột gan dường như nát như tan, Tội tình khó nỗi than van, Làm sao trả đặng muôn ngàn ơn sâu. Trước Phật tiền ai cầu trần tố, Xin Thế Tôn mẫn cố bi lân, Làm sao báo đáp thù ân, Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình. Phật bèn dụng Phạm thinh sáu món, Phân rõ cùng Đại chúng lắng nghe, Ơn cha nghĩa mẹ nặng nề, Không phương báo đáp cho vừa sức đâu. Ví có người ơn sâu dốc trả, Cõng cha mẹ tất cả hai vai. Giáp vòng hòn núi Tu Di, Đến trăm ngàn kiếp ơn kia chưa đền. Ví có người gặp cơn đói rét, Nuôi song thân dâng hết thân này, Xương nghiền thịt nát phân thây, Trải trăm ngàn kiếp ơn đây chưa đồng. Ví có người vì công sanh dưỡng, Tự tay mình khoét thủng song ngươi, Chịu thân mù tối như vầy, Đến trăm ngàn kiếp ơn này thấm đâu. Ví có người cầm dao thật bén, Mổ bụng ra, rút hết tâm can, Huyết ra khắp đất chẳng than, Đến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng. Ví có người dùng ngàn mũi nhọn, Đâm vào mình bất luận chỗ nào, Tuy là sự khó biết bao, Trải trăm ngàn kiếp không sao đáp đền. Ví có người vì ơn dưỡng dục, Tự treo mình cúng Phật thế đèn, Cứ treo như vậy trọn năm, Trải trăm ngàn kiếp ân thâm chưa đền. Ví có người xương nghiền ra mỡ, Hoặc dùng dao chặt bửa thân mình, Xương tan thịt nát chẳng phiền, Đến trăm ngàn kiếp ơn trên chưa đồng. Ví có người vì công dưỡng dục, Nuốt sắt nóng thấu ruột thấu gan, Làm cho thân thể tiêu tan, Đến trăm ngàn kiếp thâm ân chưa đền. Nghe Phật nói thảy điều kinh hãi, Giọt lệ tràn khó nỗi cầm ngăn, Đồng thinh bạch Phật lời rằng Làm sao trả đặng ân thâm song đường! Phật mới bảo các hàng Phật tử, Phải lắng nghe Ta chỉ sau này, Các người muốn đáp ơn dày, Phải toan biên chép Kinh đây lưu truyền. Vì cha mẹ trì chuyên phúng tụng Cùng ăn năn nhũng tội lỗi xưa, Cúng dường Tam Bảo sớm trưa, Cùng là tu phước chẳng chừa món chi. Rằm tháng Bảy đến kỳ Tự Tứ, Thập phương Tăng đều dự lễ này, Sắm sanh lễ vật đủ đầy, Chờ giờ câu hội đặt bày cúng dâng. Đặng cầu nguyện song đường trường thọ, Hoặc sanh về Tịnh độ an nhàn, ấy là báo đáp thù ân, Sanh thành dưỡng dục song thân của mình. Mình còn phải cần chuyên trì giới, Pháp Tam quy Ngũ giới giữ gìn, Những lời Ta dạy đinh ninh, Khá nên y thử phụng hành đừng sai Được như vậy mới là khỏi tội, Bằng chẳng thì ngục tối phải sa, Trong năm đại tội kể ra, Bất hiếu thứ nhứt, thật là trọng thay. Sau khi chết bị đày vào ngục Ngũ Vô Gián, cũng gọi A Tỳ, Ngục này trong núi Thiết Vi, Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề. Trong ngục này hàng ngày lửa cháy, Đốt tội nhơn hết thảy thành than, Có lò nấu sắt cho tan, Rót vào trong miệng tội nhơn hành hình. Một vá đủ cho người thọ khổ, Lột thịt da đau thấu tâm can, Lại có chó sắt, rắn gang, Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhơn. Ở trong ngục có giường bằng sắt, Bắt tội nhơn nằm khắp đó xong, Rồi cho một ngọn lửa hồng Nuongs quay chúng nó da phồng thịt thau. Móc bằng sắt, thương đao, gươm giáo, Trên không trung đổ tháo như mưa, Gặp ai chém nấy chẳng chừa, Làm cho thân thể nát nhừ như tương. Những hình phạt vô phương kể hết, Mỗi ngục đều có cách trị riêng, Như là xe sắt phân thây, Chim ưng mổ bụng, trâu cày lưỡi le. Chớ chi đặng chết liền rất đỡ, Vì nghiệp duyên không nỡ hành thân, Ngày đêm chết sống muôn lần. Đến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây. Sự hành phạt tại A Tỳ ngục, Rất nặng nề ngỗ nghịch song thân Chúng ngươi đều phải ân cần, Thừa hành các việc phân trần khoản trên. Nhứt là phải kinh này in chép, Truyền bá ra cho khắp Đông Tây Như ai chép một quyển này, Ví bằng đặng thấy một vì Thế Tôn Nếu in đặng ngàn muôn quyển ấy, Thì cũng bằng thấy Phật vạn thiên Do theo nguyện lực tùy duyên, Chư Phật ủng hộ y như sở nguyền Cha mẹ đặng xa miền khóc lãnh. Lại hóa sanh về cảnh thiên cung, Khi lời Phật giảng vừa xong, Khắp trong tử chúng một lòng kính vâng. Lại phát nguyện thà thân này nát, Ra tro bụi, muôn kiếp chẳng nài, Dẫu cho lưỡi kéo trâu cày, Đến trăm ngàn kiếp lời Thầy không quên. Ví như bị bá thiên đao kiếm. Khắp thân này đâm chém phân thây, Hoặc như lưới trói thân này, Trải trăm ngàn kiếp lời Thầy chẳng sai. Dẫu thân này bị cưa, bị chặt, Phân chia ra muôn đoạn rã rời, Đến trăm ngàn kiếp như vầy, Chúng con cũng chẳng trái lời Thầy khuyên. Đức A Nan kiền thiền đảnh lễ, Cầu Thế Tôn đặt để hiệu Kinh, Ngày sau truyền bá chúng sanh, Dễ bề phúng tụng, trì chuyên tu hành. Phật mới bảo A Nan nên biết, Quyển Kinh này quả thiệt cao xa, Đặt tên “BÁO HIẾU MẸ CHA”, Cùng là “ÂN TRỌNG” thiệt là chơn Kinh. Các ngươi phải giữ gìn chu đáo, Đặng đời sau y giáo phụng hành, Sau khi Phật dạy đành rành, Bốn hàng Phật tử rất mừng, rất vui. Thảy một lòng vâng theo lời Phật, Và kính thành tin chắc vẹn tuyền, Đồng nhau tựu tại Phật tiền, Nhứt tâm đảnh lễ rồi liền lui ra. NAM MÔ ĐẠI HIẾU MỤC KIỀN LIÊN BỒ TÁT 3 lần Bình luận
Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Thạc sĩ, Bác sĩ Lê Dương Tiến - Bác sĩ Nội tổng hợp - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Đà Nẵng. Bác sĩ Tiến có nhiều năm kinh nghiệm về nội cơ xương khớp. Bệnh loãng xương thường được cho là bệnh của nữ giới. Tuy nhiên, trong những cuộc nghiên cứu gần đây đã tuyên bố rằng đây là một sự ngộ nhận tai hại. Thực tế, bệnh loãng xương không loại trừ bất cứ ai, kể cả nam hay nữ. 1. Bệnh loãng xương ở nam giới là gì? Loãng xương là một rối loạn chuyển hóa của bộ xương, khiến cho xương trở nên yếu và làm tăng nguy cơ gãy xương. Xương giòn đến mức chỉ cần bạn bị ngã hoặc cử động nhẹ như cúi xuống, ho cũng có thể bị gãy xương. Tình trạng này thường xảy ra nhiều nhất ở các vùng như hông, cột sống và cổ là một mô sống, chúng liên tục bị phá vỡ và thay thế. Tình trạng loãng xương sẽ xảy ra nếu quá trình tạo xương mới của cơ thể không theo kịp với tốc độ loại bỏ xương cũ. Bên cạnh đó, sức mạnh của xương được biểu hiện bởi sự toàn vẹn về mặt khối lượng và chất lượng của lượng xương được thể hiện cụ thể như sauKhối lượng xương Bone Mass Content – BMCMật độ khoáng chất của xương Bone Mineral Density – BMDChất lượng xương phụ thuộc vào các yếu tố, bao gồmVi cấu trúc của xương, gồm thành phần chất nền của xương và thành phần chất khoáng của tích xươngChu chuyển xương, nói lên tình hình sửa chữa và tình trạng tổn thương vi cấu trúc của loãng xương thường không xuất hiện nhiều ở nam giới và có nhiều nguyên nhân khác nhau khiến các bác sĩ khó có thể chẩn đoán chính các bệnh này ở nam giới. Điều đầu tiên và quan trọng nhất là xác định được các yếu tố nguy cơ gây bệnh loãng xương vì chúng ta hoàn toàn có thể phòng ngừa và điều trị được căn bệnh này. Ngoài ra, nam giới cũng có tỷ lệ tử vong cao hơn do gãy xương ở cột sống, hông và các xương lớn khác. Bệnh loãng xương không chỉ có ở nữ giới 2. Nguyên nhân gây loãng xương ở nam giới Mật độ xương của nam giới thường cao hơn và tỷ lệ mất xương thấp hơn so với nữ giới, vì vậy gãy xương do loãng xương ở nam giới thường xảy ra ở độ tuổi khá cao từ 70 tuổi trở lên. Thêm vào đó, hậu quả gãy xương ở nam giới cũng sẽ nghiêm trọng hơn so với nữ giới. Theo thống kê, trong vòng một năm có khoảng 30% đàn ông bị tử vong sau khi gãy xương vùng hông, trong khi đó nữ giới chỉ chiếm 12%.Theo quy trình tự nhiên, xương có khả năng làm mới và phá vỡ xương cũ. Ở độ tuổi đang phát triển, cơ thể bạn sẽ hình thành xương mới nhanh hơn là phá vỡ xương cũ, khối lượng xương cũng tăng lên. Đa số mọi người đều đạt đến đỉnh khối xương khoảng 20 tuổi, những năm sau đó khi tuổi tác ngày một lớn, khối xương bị mất nhanh hơn xương mới được tạo trạng loãng xương xảy ra còn phụ thuộc một phần vào khối xương bạn đạt được khi còn trẻ. Nghĩa là, khối lượng đỉnh càng cao thì xương tích tụ càng nhiều và khả năng bạn bị loãng xương khi bước sang tuổi trung niên càng thống kê, có khoảng 50% nam giới bị bệnh loãng xương không xác định rõ nguyên nhân, ngoài lý do là tuổi tác cao. Khi tuổi tác ngày càng lớn, các tế bào tạo xương dần bị lão hóa, các hormon sinh dục cũng bị giảm thấp kèm theo sự giảm sút trong việc hấp thụ canxi và vitamin D hai yếu tố chính xây dựng xương, đã dẫn tới bệnh loãng xương. Vì vậy, nếu ở tuổi trưởng thành mà khối lượng xương không đạt đỉnh thì tình trạng loãng xương sẽ càng nặng nề. Khi tuổi tác càng lớn tình trạng loãng xương càng trở nên nặng nề 3. Những yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh loãng xương ở nam giới Những yếu tố có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh loãng xương cho nam giới bao gồmTuổi tác Tuổi tác càng cao trung niên trở đi đều rất dễ bị loãng vóc Nam giới có dáng vóc gầy gò, nhỏ bé đều có nguy cơ cao mắc bệnh loãng xương hơn, vì họ thường ít có dự trữ khối lượng xương để dùng khi lớn sử gia đình Trong gia đình có cha mẹ hay anh chị em bị loãng xương thì những thành viên khác cũng dễ bị mắc bệnh, đặc biệt là những người đã có tiền sử bị gãy năng tuyến sinh dục nam và các tuyến nội tiết Tuyến thượng thận, tuyến giáp,..Lạm dụng rượu Rượu là chất kích thích khiến làm giảm tiến trình tạo xương và ảnh hưởng lớn tới khả năng hấp thụ canxi của cơ thể. Đối với những người đàn ông tuổi trung niên, lạm dụng quá nhiều rượu sẽ là một trong những nguy cơ phổ biến nhất gây loãng sử sử dụng thuốc Những nam giới đã sử dụng các loại thuốc corticosteroid như cortisone, methylprednisolone, prednisone, prednisolone và dexamethasone trong thời gian dài đều dễ bị loãng xương sau thuốc lá Ở những nam giới nghiện thuốc lá sẽ có tỷ lệ gãy đốt sống cao gấp đôi so với nam giới không hút thuốc. Hút thuốc lá lằm tăng nguy cơ loãng xương ở nam giới Rối loạn ăn uống Bệnh ăn nhiều và bệnh chán ăn do nguyên nhân thần kinh đều là những yếu tố gây nguy cơ cao làm giảm tỷ trọng xương ở vùng xương hông và vùng thắt lưng. Thêm vào đó, chế độ ăn uống không cung cấp đủ lượng canxi cũng là nguyên do chính gây nên tình trạng loãng xương cho nam giới. Theo khuyến cáo, nam dưới 65 tuổi cần cung cấp 1000mg canxi mỗi ngày, trên 65 tuổi cần ít nhất là 1500mg canxi mỗi vận động Lối sống không thường xuyên vận động là một trong những nguy cơ cao gây loãng các căn bệnh mãn tính Một số căn bệnh khiến cho khả năng hấp thụ canxi giảm và ảnh hưởng xấu tới tỷ trọng xương, bao gồm đái tháo đường tuýp I phụ thuộc vào insulin, bệnh Cushing, bệnh Crohn, bệnh thận và phổi mãn tính. 4. Dấu hiệu và triệu chứng của bệnh loãng xương ở nam giới Dù là nam hay nữ thì bệnh thường diễn biến một cách âm thầm theo thời gian. Người ta thường ví bệnh loãng xương như một “kẻ cắp” thầm lặng, hàng ngày lấy dần đi canxi trong ngân hàng dự trữ xương của cơ thể con người. Khi xuất hiện những dấu hiệu lâm sàng cũng là lúc đã có biến chứng, thông báo cho bạn biết cơ thể có thể đã bị mất đi khoảng 30% khối lượng xương. Những biểu hiện lâm sàng của bệnh bao gồmĐau mỏi mơ hồ ở cột sống, dọc các xương dài, đặc biệt là xương cẳng chân, đau mỏi cơ bắp, thấy ớn lạnh, thường xuyên bị chuột rút các thực sự ở cột sống, cơn đau lan theo khoanh liên sườn, đau khi ngồi lâu hoặc thay đổi tư thế. Sau chấn thương như gãy xương cổ tay, gãy cổ xương đùi, gãy lún đốt sống có thể bị đau mãn tính hoặc cấp ngực, khó thởĐầy bụng chậm tiêuGiảm chiều cao, bị gù lưngKhi có bất cứ dấu hiệu và triệu chứng nào như trên, tốt nhất bạn nên đến bác sĩ để thăm khám. Tùy thuộc vào cơ địa của từng người mà bác sĩ sẽ lựa chọn được phương án thích hợp nhất. Thăm khám và theo dõi tình trạng xương để được điều trị sớm nhất 5. Phương pháp điều trị bệnh loãng xương ở nam giới Chẩn đoán bệnh loãng xương ở nam giớiCác kỹ thuật y tế để đo mật độ xương là máy sử dụng X-quang với cường độ thấp nhằm xác định tỷ trọng khoáng trong thực hiện xét nghiệm, bạn sẽ nằm trên một thiết bị và máy quét sẽ đi qua cơ thể. Các đoạn xương thường được kiểm tra bao gồm hông, cổ tay, cột dụng thuốcNhóm Bisphosphonate Những thuốc này ức chế hủy xương và làm chậm sự mất xương, đồng thời giúp tăng tỷ trọng xương ở cột sống và xương Là thuốc làm chậm quá trình hủy xương, giảm đau, kích thích liền xương. Bên cạnh đó, nó có thể làm giảm gãy xương cột sống khoảng 40%. Thuốc được sử dụng dưới dạng xịt qua pháp testosterone bổ sung Chỉ có tác dụng với nam giới bị loãng xương do nồng độ testosterone thấp. Nếu nồng độ testosterone ở mức bình thường sẽ không làm tăng tỷ trọng khối lượng đổi lối sốngĐây được cho là cách tốt nhất để điều trị tình trạng loãng xương đối với những người đàn ông trung niên. Một số biện pháp hiệu quả bao gồm thường xuyên vận động, bổ sung đầy đủ canxi và vitamin D, hạn chế thuốc lá, rượu bia, tránh lạm dụng thuốc, tránh té ngã và điều chỉnh những bệnh lý đang mắc phải. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. Bài viết tham khảo nguồn XEM THÊM Các dấu hiệu cảnh báo xương yếu Vì sao trẻ ngủ không sâu giấc, thường xuyên quấy khóc? Trẻ sơ sinh 1 tháng tuổi được dùng đồng thời men vi sinh và Vitamin D không?
Ta Từng Nghe Lời Tạc Như Vậy Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ Thành Kỳ Thụ Viên trung Chư Tăng câu hội rất đông Tính ra đến số hai muôn tám ngàn Lại cũng có các hàng Bồ Tát Hội tại đây đủ mặt thường thường Bấy giờ Phật lại lên đường Cùng hàng đại chúng nam phương tiến hành Đáo bán lộ đành rành mắt thấy Núi xương khô bỏ đấy lâu đời Thế Tôn bèn vội đến nơi Lạy liền ba lạy, rồi rơi giọt hồng Đức A Nan trong lòng ái ngại Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương Vội vàng xin Phật dạy tường Thầy là Từ Phụ ba phương bốn loài Ai ai cũng kính Thầy dường ấy Cớ sao thầy lại lạy xương khô Phật rằng trong các môn đồ Người là đệ tử đứng đầu dày công Bởi chưa biết đục trong chưa rõ Nên vì người ta tỏ đuôi đầu Đống xương dồn dập bấy lâu Cho nên trong đó biết bao cốt hài Chắc cũng có ông bà cha mẹ Hoặc thân ta hoặc kẻ ta sanh Luân hồi sanh tử, tử sanh Lục thân đời trước, thi hài còn đây Ta lễ bái những người tiền bối Và ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa Đống xương hỗn tạp chẳng vừa Không phân trai gái bỏ bừa khó coi Người chịu khó xét soi cho kỹ Phân làm hai, bên nữ bên nam Để cho phân biệt cốt phàm Không còn lộn lạo nữ nam chất chồng Đức A Nan trong lòng tha thiết Biết làm sao phân biệt khỏi sai Ngài bèn xin Phật tỏ bày Vì khó chọn lựa gái trai lúc này Còn sanh tiền dễ bề sắp đặt Cách đứng đi ăn mặc phân minh Chớ khi rã xác tiêu hình Xương ai như nấy, khó nhìn khó phân Phật mới bảo A Nan nên biết Xương nữ nam phân biệt rõ ràng Đàn ông xương trắng nặng quằn Đàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn Người có biết cớ sao đen nhẹ? Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra Sanh con ba đấu huyết ra Tám hộc bốn đấu sữa hòa nuôi con Vì cớ ấy hao mòn thân thể Xương đàn bà đen nhẹ hơn trai A Nan nghe vậy bi ai Xót thương cha mẹ công dày dưỡng sanh Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo Phương pháp nào báo hiếu song thân Thế Tôn mới bảo lời rằng Vì ngươi ta sẽ phân trần khá nghe Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc Sanh đặng con mười tháng cưu mang Tháng đầu, thai đậu tợ sương Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường Tháng thứ nhì dường như sữa đặc Tháng thứ ba như cục huyết ngưng Bốn tháng đã tượng ra hình Năm tháng ngũ thể hiện sanh rõ ràng Tháng thứ sáu lục căn đều đủ Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương Lại thêm đủ lỗ chân lông Cộng chung đến số tám muôn bốn ngàn Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ Chín tháng thì đầy đủ vóc hình Mười tháng là đúng kỳ sanh Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn Bằng ngỗ nghịch làm buồn thân mẫu Nó vẫy vùng đạp quấu lung tung Làm cho cha mẹ hãi hùng Sự đau sự khổ không cùng tỏ phân Khi sanh đặng muôn phần khoái lạc Cũng ví như được bạc được vàng Thế Tôn lại bảo A Nan Ơn cha nghĩa mẹ mười phần phải tin Điều thứ nhất giữ gìn thai giáo Mười tháng trường chu đáo mọi bề Thứ hai sanh đẻ gớm ghê Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần Điều thứ ba, thâm ân nuôi dưỡng Cực đến đâu bền vững chẳng lay Thứ tư ăn đắng nuốt cay Để dành bùi ngọt đủ đầy cho con Điều thứ năm lại còn khi ngủ Ướt mẹ nằm, khô ráo phần con Thứ sáu, sú nước nhai cơm Miễn con no ấm chẳng màng gớm ghê Điều thứ bảy không chê ô uế Giặt đồ dơ của trẻ không phiền Thứ tám chẳng nỡ chia riêng Nếu con đi vắng cha phiền mẹ lo Điều thứ chín miễn con sung sướng Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam Tính sao có lợi thì làm Chẳng màng tội lỗi, bị giam bị cầm Điều thứ mười chẳng ham chau chuốt Dành cho con các cuộc thanh nhàn Thương con như ngọc như vàng Ơn cha nghĩa mẹ sánh bằng Thái Sơn! Phật lại bảo A Nan nên biết Trong chúng sanh tuy thiệt phẩm người Mười phần mê muội cả mười Không tường ơn trọng đức dày song thân Chẳng kính mến, quên ơn, trái đức Không xót thương dưỡng dục cù lao Ấy là bất hiếu mạc dao Thì những người ấy đời nào nên thân Mẹ sanh con cưu mang mười tháng Cực khổ dường gánh nặng trên vai Uống ăn chẳng đặng vì thai Cho nên thân thể hình hài kém suy Khi sanh sản hiểm nguy chi xiết Sanh đặng rồi tinh huyết đầm đề Ví như thọc huyết trâu dê Nhất sanh thập tử nhiều bề gian nan Con còn nhỏ phải năng chăm sóc Ăn đắng cay bùi ngọt phần con Phải tắm, phải giặt, rửa trôn Biết rằng dơ dáy mẹ không ngại gì Nằm phía ướt con nằm phía ráo Sợ cho con ướt áo, ướt chăn Hoặc khi ghẻ chóc đầy mình Chắc còn phải chịu trăm phần thảm thương Trọn ba năm bú nương sữa mẹ Thân gầy mòn nào nệ với con Đến khi vừa được lớn khôn Mẹ cha dạy bảo cho con vỡ lòng Cho đi học mở thông trí tuệ Dựng vợ chồng có thể làm ăn Ước mong con được nên thân Dầu cho cha mẹ cơ bần quản chi Con ốm đau tức thì lo chạy Dầu tốn hao cách mấy cũng đành Khi con căn bệnh đặng lành Thì cha mẹ mới an tâm định thần Công dưỡng dục sánh bằng non biển Cớ sao con chẳng biết ơn này Hoặc khi lầm lỗi bị rầy Chẳng tuân thì chớ lại bày ngỗ ngang Hờn cha mẹ phùng mang trợn mắt Khinh trưởng huynh nộ nạt thê nhi Bà con chẳng kể ra chi Không tuân sư phụ lễ nghi chẳng tường Lời dạy bảo song đường không kể Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng Trái ngang chóng báng mọi đàng Ra vào lui tới mắng càn người trên Vì lỗ mãng tánh quen làm bướng Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn Lớn lên theo lối hung hăng Đã không nhẫn nhịn lại càng hành hung Bỏ bạn lành theo cùng chúng dữ Nết tập quen làm sự trái ngang Nghe lời dụ dỗ quân hoang Bỏ cha bỏ mẹ trốn sang quê người Trước còn tập theo thời theo thế Thân lập thân tìm kế sanh nhai Hoặc đi buôn bán kiếm lời Hoặc vào quân lính với với đời lập công Vì ràng buộc đồng công mối nợ Ngoặc trở ngăn vì vợ vì con Quên cha quên mẹ tình thâm Quên xứ quên sở lâu năm không về Ấy là nói những người có chí Chớ phần nhiều du hý mà thôi Sau khi phá hết của rồi Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài Theo trộm cướp hoặc là bài bạc Phạm tội hình, tù rạt phải vương Hoặc khi mang bệnh giữa đường Không người nuôi dưỡng bỏ thân ngoài đồng Hay tin dữ, bà con cô bác Cùng cha mẹ xao xác buồn rầu Thương con than khóc ưu sầu Có khi mang bệnh đui mù vấn vương Hoặc bệnh nặng vì thương qúa lẽ Phải bỏ mình làm quỷ giữ hồn Hoặc nghe con chẳng lo lường Trà đình tửu điếm phố phường ngao du Cứ mài miệt với đồ bất chánh Chẳng mấy khi thần tỉnh mộ khang Làm cho cha mẹ than van Sanh con bất hiếu phải mang tiếng đời Hoặc cha mẹ đến hồi già yếu Không ai nuôi thiếu thốn mọi điều Ốm đau đói rách kêu rêu Con không cấp dưỡng bỏ liều chẳng thương Phận con gái còn nương cha mẹ Thì có lòng hiếu để thuận hòa Cần lao phục dịch trong nhà Dễ sai dễ khiến hơn là nam nhi Song đến lúc tùng phu xuất giá Lo bên chồng chẳng xá bên mình Trước còn lai vãng viếng thăm Lần lần nguội lạnh biệt tăm biệt nhà Quên dưỡng dục song thân ơn trọng Không nhớ công mang nặng đẻ đau Chẳng lo báo bổ cù lao Làm cho cha mẹ buồn rầu thảm thay Nếu cha mẹ rầy la quở mắng Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiêng Chớ chi chồng đánh liên miên Thì cam lòng chịu chẳng phiền chẳng than Tội bất hiếu lưỡng ban nam nữ Nói không cùng nghiệp dữ phải mang Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng Trong hàng đại chúng lòng càng thảm thay Gieo xuống đất, lấy cây lấy củi Đập vào mình, vào mũi vào hông Làm cho các lỗ chân lông Thảy điều ruớm máu ướt đầm cả thân Đến hôn mê tâm thần bất định Một giây lâu mới tỉnh than rằng Bọn ta quả thiệt tội nhơn Xưa nay chẳng rõ không hơn người mù Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc Ruột gan dường như nát như tan Tội tình khó nỗi than van Làm sao trả đặng muôn ngàn ơn sâu Trước Phật tiền ai cầu trần tố Xin Thế Tôn mẫn cố bi lân Làm sao báo đáp thù ân Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình Phật bèn dụng phạm thinh sáu món Phân rõ cùng Đại chúng lóng nghe Ơn cha nghĩa mẹ nặng nề Không phương báo đáp cho vừa sức đâu! Ví có người ơn sâu dốc trả Cõng mẹ cha tất cả hai vai Giáp vòng hòn núi tu di Đến trăm ngàn kiếp ơn kia chưa đền Ví có người gặp cơn đói rét Nuôi song thân dâng hết thân này Xương nghiền thịt nát phân thây Trải trăm ngàn kiếp ơn đây chưa đồng Ví có người vì công sanh dưỡng Tự tay mình khoét thủng song ngươi Chịu thân mù tối như vầy Đến trăm ngàn kiếp ơn này thấm đâu Ví có người cầm dao thật bén Mỗ bụng ra, rút hết tâm can Huyết ra khắp đất chẳng than Đến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng Ví có người dùng ngàn mũi nhọn Đâm vào mình bất luận chỗ nào Tuy là sự khó biết bao Trải trăm ngàn kiếp không sao đáp đền Ví có người vì ơn dưỡng dục Tự treo mình cúng Phật thế đèn Cứ treo như vậy trọn năm Trải trăm ngàn kiếp ân thâm chưa đền Ví có người xương nghiền ra mỡ Hoặc dùng dao chặt bửa thân mình Xương tan thịt nát chẳng phiền Đến trăm ngàn kiếp ơn trên chưa đồng Ví có người vì công dưỡng dục Nuốt sắt nóng thấu ruột thấu gan Làm cho thân thể tiêu tan Đến trăm ngàn kiếp ơn sâu chưa đền Nghe Phật nói thảy đều kinh hãi Giọt lệ tràn khó nỗi cầm ngăn Đồng thinh bạch Phật lời rằng Làm sao trả đặng thâm ân song đường? Phật mới bảo các hàng Phật tử Phải lóng nghe ta chỉ sau này Các ngươi muốn đáp ơn dày Phải toan biên chép kinh đây lưu truyền Vì cha mẹ trì chuyên phúng tụng Cùng ăn năn những tội lỗi xưa Cúng dường Tam Bảo sớm trưa Cùng là tu phước chẳng chừa món chi Rằm tháng bảy đến ngày Tự Tứ Thập phương Tăng đều dự lễ này Sắm sanh lễ vật đủ đầy Chờ giờ câu hội đặt bày cúng dâng Đặng cầu nguyện song đường trường thọ Hoặc sanh về tịnh độ an nhàn Ấy là báo đáp thù ân Sanh thành dưỡng dục song thân của mình Mình còn phải cần chuyên trì giới Pháp tam quy ngũ giới giữ gìn Những lời ta dạy đinh ninh Khá tua y thử phụng hành đừng sai Được như vậy mới là khỏi tội Bằng chẳng thì ngục tối phải sa Trong năm đại tội kể ra Bất hiếu thứ nhất, thật là trọng thay Sau khi chết bị đầy vào ngục Ngục vô gián, cũng gọi A Tỳ Ngục này trong núi Thiết vi Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề Trong ngục này hàng ngày lửa cháy Đốt tội nhân hết thảy thành than Có lò nấu sắt cho tan Rót vào trong miệng tội nhân hành hình Một vá đủ cho người thọ khổ Lột thịt da đau thấu tâm can Lại có chó sắt, rắn gang Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhơn Ở trong ngục có giường bằng sắt Bắt tội nhơn nằm khắp đó xong Rồi cho một ngọn lửa hồng Nướng quay kẻ tội da phòng thịt thau Móc bằng sắt, thương đao gươm giáo Trên không trung đổ tháo như mưa Gặp ai chém náy chẳng chừa Làm cho thân thể nát nhừ như tương Những hình phạt vô phương kể hết Mỗi ngục đều có cách trị riêng Như là xe sắt phân thây Chim ưng mổ mắt trâu cày lưỡi le Chớ chi đặng chết liền rất đỡ Vì nghiệp duyên không nỡ hành thân Ngày đêm chết sống muôn lần Đến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây Sự hành phạt tại A Tỳ ngục Rất nặng nề ngỗ nghịch song thân Chúng ngươi đều phải ân cần Thừa hành các việc phân trần khoản trên Nhứt là phải kinh này in chép Truyền bá ra cho khắp đông tây Như ai chép một quyển nầy Ví bằng đặng thấy một vì Thế Tôn Nếu in đặng ngàn muôn quyển ấy Thì cũng bằng thấy Phật vạn thiên Do theo nguyện lực tùy duyên Chư Phật ủng hộ y như sở nguyền Cha mẹ đặng xa miền khốc lãnh Lại hóa sanh về cảnh thiên cung Khi lời Phật giảng vừa xong Khắp trong tứ chúng một lòng kính vâng Lại phát nguyện thà thân này nát Ra bụi tro, muôn kiếp chẳng nài Dầu cho lưỡi kéo trâu cày Đến trăm ngàn kiếp lời Thầy không quên Ví như bị bá thiên đao kiếm Khắp thân này đâm chém phân thây Hoặc như lưới trói thân này Trải trăm ngàn kiếp lời Thầy chẳng sai Dầu thân này bị cưa bị chặt Phân chia ra muôn đoạn rã rời Đến trăm ngàn kiếp như vầy Chúng con cũng chẳng trái lời Thầy khuyên Đức A Nan kiền thiền đảnh lễ Cầu Thế Tôn đặt để hiệu Kinh Ngày sau truyền bá chúng sanh Dễ bề phúng tụng, trì chuyên tu hành Phật mới bảo A Nan nên biết Quyển kinh này quả thiệt cao xa Đặt tên "Báo Hiếu Mẹ Cha" Cùng là "Ân Trọng " thiệt là chơn kinh Các ngươi phải giữ gìn châu đáo Đặng đời sau y giáo phụng hành Sau khi Phật dạy rành rành Bốn ban Phật tử rất mừng rất vui Thảy một lòng vâng theo lời Phật Và kính thành tin chắc vẹn truyền Đồng nhau tựu tại Phật tiền Nhất tâm đảnh lễ rồi liền lui ra.
Trước hết, đàn ông là kẻ mày râu. Nói chữ thì đó là hạng “tu mi nam tử” Mày râulà trời sinh ra thế. Nhưng đó là cái phần tự nhiên. Còn cái phần xã hội thì mày râu lại liên quan đến chuyện luân lý đạo dao xưa có câu “Đàn ông không râu bất nghì”. “Nghì” là đọc chệch của “nghĩa” theo luật ép vần trong thơ. Cha ông xưa xem tướng đàn ông, đàn bà theo kiểu “trông mặt mà bắt hình dong”. Đàn ông không râu là bất nghĩa, cũng như “đàn bà không vú lấy gì nuôi con”. Thế nghĩa là có râu mới là đàn ông thứ thiệt, giống như phụ nữ với thiên chức sinh con, nuôi con thì không thể thiếu hai bầu sữa thiêng liêng tinh khiết mà tạo hoá ban ông là phái mạnh. Trước tiên cũng là nói cái mạnh cơ bắp, cái mạnh thế lực. Cấu tạo cơ thể người nam vốn dĩ do tạo hoá đất mà ra như vậy. Để phái nữ được bị coi là phái yếu. Nhưng đàn ông chỉ là đàn ông khi cái mạnh được tôn lên bên cái đẹp, tức là nửa dương phải có nửa âm mới trọn vẹn hoàn chỉnh. Cứng cáp so với nhẹ nhàng, mạnh mẽ so với dịu dàng. Nếu không, phái mạnh hoá ra là “vũ phu”. Nữ sĩ Xuân Quỳnh từng có một bài thơ hay về phái yếu, nói là yếu nhưng thực ra là mạnh đấy, vì “nếu sáng này em chẳng đong được gạo, chắc chắn buổi chiều anh không có cơm ăn”. Nhưng cuối cùng trái tim nhà thơ đầy đa cảm thương yêu này vẫn nhìn ra một biện chứng cuộc sống của con người “Thú thực là chúng tôi cũng không sống được, nếu không có các anh thế giới chỉ là đàn bà”.Đàn ông là nhẹ dạ, cả tin là duy mĩ. Mặc dù họ được coi là thiên về duy lý. Vườn Eden vì vậy không còn là chốn thiên đường cho Adam. Bao quốc gia bại vong vì “nhan sắc khuynh thành” của những mỹ nhân. Những người đàn ông là các bậc vua chúa, các tướng soái, tư lệnh các doanh nhân, kỹ nghệ gia, họ cai quản cả thế giới nhưng lắm khi họ lại ngờ ngệch, ngây thơ như trẻ nhỏ. Nhân loại vì thế mà đau khổ nhiều hơn, hạnh phúc cũng nhiều hơn. Oscar Wilde có một nhận xét hay “ Không bao giờ có thể tước được khí giới của phụ nữ bằng lời khen nhưng với đàn ông thì bao giờ cũng có thể”.Đàn ông là điên rồ. Hình như trong mỗi họ đều có cái chất điên điên của Đôn Kihôtê mà nhân loại vừa kỷ niệm 400 năm lão ra đời ở xứ sở đấu bò tót. Phụ nữ chẳng bao giờ nhìn cối xay gió thành tên khổng lồ như đàn ông. Nhìn ra thế, rồi lao vào đánh nhau đến bươu đầu sứt trán mà vẫn mê không tỉnh. Nhưng nếu không thế, đàn ông hình như lại không phải đàn ông. Điên rồ và đàn ông tích hợp trong mình hai mâu thuẫn thống nhất ấy. Những thói tật xấu của đàn ông là từ đó mà ra. Cô đơn với đàn ông là một thứ xa ông là Man và Homme. Viết hoa, đàn ông như vậy là Con Người, là loài người chẳng biết ngoài tiếng Anh, tiếng Pháp ra, còn thứ tiếng nào khác đánh đồng hai khái niệm này trong ngôn ngữ nữa không. Đây là vết tích của chế độ phụ quyền chăng? Kể ra như thế cũng là gánh nặng cho đàn ông khi họ phải mang vác trên vai mình một sứ mệnh của giống ông là… là gì nữa đây? Đàn ông là không phải đàn bà, là hoà hợp với đàn bà. Nếu không có đàn bà, cũng chẳng có đàn ông. Vật tương khắc tương sinh, người tương sinh tương lại, đàn ông là… đàn ông. Có thể không mày râu, có thể không mạnh khoẻ, có thể không điên rồ, nhưng có cốt cách đàn ông, có tình cảm đàn ông, là đàn ông. Vậy thôi.
Bệnh Porak – Durant Hội chứng tạo xương bất toàn/ bệnh xương thủy tinh – Osteogenesis perfecta OI – bệnh di truyền bởi gene trội hoặc lặn từ phía cha hoặc mẹ tài liệu ko thống nhất. Đây là một bệnh tương đối hiếm với tần suất là 1/ trẻ sinh sống không phân biệt chủng tộc, giới tính – Cơ chế Xương của chúng ta là một mô liên kết đặc biệt bao gồm các tế bào và chất khuôn xương, trong đó chất khuôn xương bao gồm các sợi collagen và các mô liên kết khác giàu chất glucoaminoglycin. Trong bệnh tạo xương bất toàn, do tổn thương các gen chỉ huy sản xuất collagen type 1 nên số lượng hoặc chất lượng của các sợi collagen bị giảm sút làm cho xương giảm khả năng chịu lực, bị biến dạng và dễ gãy. Do vậy khi bị bệnh thì xương không có độ bền dẻo nữa mà lại giòn và vì thế mà xương rất dễ biến dạng và gãy ngay khi không có sang chấn hoặc sang chấn rất nhẹ như ho, hắt hơi, vỗ vai….Cũng vì thế mà còn gọi nôm na là “xương thuỷ tinh” để chỉ bệnh này. – Biểu hiện lâm sàng Collagen còn là thành phần chính của nhiều mô liên kết nên bệnh cảnh lâm sàng không chỉ ở xương mà còn ở nhiều cơ quan khác như da, dây chằng, củng mạc mắt, răng như như gãy xương tự phát, biến dạng xương, lùn, bất thường của răng tạo răng bất toàn, giảm thính lực, củng mạc mắt có màu xanh. một trường hợp tạo xương bất toàn, dị dạng cong 2 xương cẳng tay bất thường của răng – Phân loại Loại I Loại I 1đàn bà 38 t, cao 1,71m. 2 đàn bà 63 tuổi, cao 1,37m Đây là dạng hay gặp nhất và nhẹ nhất trong bệnh OI. Chất collagen trong trường hợp này bị thiếu hụt hay gặp hoặc đủ số lượng nhưng kém chất lượng. Xương bị gãy trong thể bệnh này dễ chữa hơn các thể khác. Gãy xương thường xuất hiện trước tuổi dậy thì. Thể bệnh này thường có tầm vóc bình thường hoặc tương đối như bình thường. Có biểu hiện yếu dây chằng khớp, và trương lực cơ cũng yếu làm cho sự di chuyển của bệnh nhân có thể khó khăn. Một số trường hợp có biểu hiện có vết xanh thâm hay tím ở tròng trắng của mắt. Bệnh nhi có thể có khuôn mặt hình tam giác. Cột sống có thể cong. Có thể dễ bị gãy răng. Loại II Là thể loại nặng nhất của chứng OI, bệnh nhân tử vong ngay sau sinh hoặc chỉ sống được một thời gian ngắn sau khi chào đời do rối loạn hô hấp. Nhờ tiến bộ của kỹ thuật, hiện nay nhóm bệnh nhân này có thể sống đến tuổi vị thành niên. Gãy nhiều xương, biến dạng xương nặng. Tầm vóc thấp bé đi kèm với thiểu năng hô hấp. Loại III Loại III1 đàn ông 27 t cao 94cm; 2 đàn bà 40 t, 84cm Cũng là một dạng tạo collagen không thích hợp thường là gây nên tình trạng biến dạng xương nặng. Trẻ thường sinh ra xương đã gãy. Lòng trắng mắt có thể quá trắng hoặc có màu xanh hoặc màu xám. Bệnh nhân mắc OI loại III thường có tầm vóc thấp, có các biến chứng bề hô hấp, rối loạn về răng. Có thể giảm chức năng nghe. Loại IV Loại IV 1 đàn ông 40 t cao 90 cm; 2 đàn bà 35 t, 124 cm Là dạng nặng trung bình về rối loạn tạo collagen, giữa các mức độ I, II và III. Các xương dễ bị gãy. Một số bệnh nhân có thể có tầm vóc thấp hơn bình thường và có thể có rối loạn ở răng. Các xương bị biến dạng ở mức nhẹ đến trung bình. Tuy nhiên hiện nay cũng đã có đến loại V, VI, và VII [4-Như vậy, về mặt mức độ từ nhẹ đến nặng trên lâm sàng được xếp như sau Loại I nhẹ nhất < IV, V, VI, VII < loại III < loại II nặng nhất Trong thời kỳ mẹ mang thai, siêu âm có thể phát hiện được các trường hợp bệnh nặng. Hoặc xét nghiệm di truyền có thể nhận dạng được tình trạng đột biến của gen. Trong nhiều trường hợp, các xương gãy gần như tự nhiên hoặc do sang chấn tối thiểu, là một dấu hiệu chỉ điểm của OI. Loại V Biểu hiện lâm sàng như loại IV, chẩn đoán bằng sinh thiết xương Loại V người lớn Loại V trẻ nhỏ Loại VI Biểu hiện lâm sàng như các thể trung bình đến nặng. Ngoài ra còn có tăng một loại biểu thị tố luân chuyển xương bone turnover marker là alkaline phosphatase. – Chăm sóc trẻ + Không cho trẻ chạy nhảy mạnh, nhà cửa phải thu xếp gọn gàng, tránh trơn trượt. Nếu trẻ đi học, phụ huynh cần thông báo với giáo viên tình trạng bệnh của trẻ. + Khi trẻ bị gãy xương, cần cố định phần xương bị gãy, sau đó mới đưa trẻ đến bệnh viện. Cần kiểm tra kỹ, nếu trẻ bị gãy cột sống cổ phải bất động cổ, nếu không có thể làm trẻ tử vong. + Gãy xương ở bệnh nhân xương thủy tinh là một dạng gãy xương đặc biệt, không thể điều trị như gãy xương thông thường. Cha mẹ nên đưa trẻ đến bệnh viện có chuyên môn về xương để băng bó, vì ở các điểm y tế địa phương có thể làm lệch xương gây dị tật cho bé và khó khăn cho việc đi lại sau này + việc mổ ghép xương cho trẻ xương thủy tinh phải có êkip quen việc. Xương trẻ rất mềm, không thể dùng các dụng cụ gắp xương thông thường mà phải dùng tay để giữ xương nhẹ nhàng tránh làm nát xương của trẻ. + Tập luyện thể thao cũng là một giải pháp không kém phần quan trọng đối với tăng cường sức khỏe cho trẻ bệnh xương thủy tinh. Luyện tập thể thao là việc phải tiến hành suốt đời. Bởi có tập luyện thì xương mới cứng, mới có cơ hội đi lại. Lý tưởng nhất là cho trẻ bơi và tập đi dưới nước. Lực cản dưới nước sẽ nâng đỡ trẻ, tránh cho trẻ những va chạm mạnh mà không bị gãy xương. Với mỗi trẻ đều phải có bài tập luyện riêng dựa trên đặc điểm cơ thể từng trẻ một – Điều trị Cho đến hiện nay, chứng bất toàn trong tạo sinh xương vẫn được xem là một rối loạn di truyền không thể chữa khỏi được. Lý do là chưa có thể thay thế lại được cấu trúc của chất collagen trong cơ thể cũng như hiện nay chưa có phương thức nào kích thích cho cơ thể tăng tổng hợp số lượng collagen. Phương pháp can thiệp vào cấu trúc di truyền vẫn là một thiết kế trong ý tưởng. Vì thế, hiện nay vấn đề đặt ra là quản lý bệnh nhân như thế nào, và giúp cho bệnh nhân giảm thiểu tai biến gãy xương đến mức có thể chứ không đặt nặng vấn đề chữa khỏi. Điều trị phải dựa trên từng bệnh nhân tuỳ thuộc vào mức độ nặng nhẹ của bệnh và tuổi tác của bệnh nhân. Điều trị bệnh này phải có sự phối hợp của một đội ngũ các thầy thuốc các chuyên khoa, vật lý trị liệu, y tá chuyên ngành, nhân viên y tế cộng đồng. Nguyên tắc trị liệu bao gồm + Tối ưu hoá chức năng của bộ xương + Tối thiêu hoá các biến dạng và sự tàn phế + Hỗ trợ và phát triển kỹ năng sinh tồn độc lập của người bệnh + Duy trì sức khoẻ toàn trạng, điều trị vật lý Điều trị chỉnh hình Phần lớn các gãy xương trong bệnh này thường được điều trị bằng phương pháp chỉnh hình như bất động, nẹp bột, bó bột. Có một điều đặc biệt là các chỗ gãy xương thường nhanh liền hơn các trường hợp bình thường. Điều trị phẫu thuật Ít áp dụng, chỉ định cho xương bị gãy biến dạng nặng. Điều trị bằng thuốc Có nhiều thuốc đã được nghiên cứu nhưng cho đến nay, các thuốc ức chế quá trình hủy xương như nhóm bisphosphonate là thuốc được nghiên cứu nhiều nhất và cho kết quả khá khả quan. Thuốc pamidronate được truyền tĩnh mạch 3 tháng/lần, có tác dụng giảm đau, tăng mật độ và hạn chế gãy xương. Tuy nhiên, giá thuốc quá cao đối với thu nhập của nhiều gia đình người bệnh, nên gặp nhiều khó khăn trong việc điều trị. Tham khảo
đàn ông xương trắng nặng quằn